Bên cạnh tiêu chuẩn kỳ tuyệt về bốn mức Thiền, Phật cũng xác lập ra Bốn Thánh quả giải thoát từ thấp lên cao. 

Người chứng được một trong bốn Thánh quả này, được xem là có tư cách của thánh, có thánh tính, có giá trị làm thánh, vượt lên khỏi sự tầm thường của con người.

♦ Thiền học 15: Tứ Thiền – Bí mật về 4 tầng Thiền trong đạo Phật

Tiêu chuẩn để đánh giá các quả thánh là dựa vào mức độ tăng trưởng Đạo đức qua việc phá trừ các Kiết sử, khác với tiêu chuẩn của Tứ thiền là dựa vào mức độ nhập định sâu cạn.

Nhiều người đã cảm thấy mơ hồ về sự khác nhau của Tứ Thiền và Tứ Thánh quả vì cả hai đều rất cao cả vĩ đại, đều là những nấc thang hướng về giải thoát.

Vậy Tứ Thánh quả trong đạo Phật là gì? Tứ thánh quả khác với Tứ Thiền như thế nào? Làm sao để biết được một người đã chứng quả vị thánh? Hãy cùng PhatTuTaiGia.com tìm hiểu ngay qua bài viết dưới đây!

Nội dung chính
  • Tứ Thánh quả là gì?
  • 1. Sơ quả Tu đà hoàn
  • 2. Nhị quả Tư đà hàm
  • 3. Tam quả A na hàm
  • 4. Tứ quả A la hán
  • Lời kết
  • Tứ Thánh quả là gì?

    Tứ thánh quả lại không đề cập đến mức độ hay trạng thái nhập định, mà lại dựa vào tiêu chuẩn phá các kiết sử, nghĩa là dựa vào mức độ thăng tiến Đạo đức. 

    Tứ Thánh quả là Bốn quả vị Thánh được Phật sắp xếp từ thấp đến cao dựa theo tiêu chuẩn tăng trưởng của Đạo đức, gồm:

    1. Sơ quả Tu đà hoàn

    2. Nhị quả Tư đà hàm

    3. Tam quả A na hàm

    4. Tứ quả A la hán

    tu-thanh-qua (2a)
    Tứ Thánh quả trong đạo Phật

    Phật cũng không đưa ra một công thức nhất định giữa đạo đức và thiền định, mặc dù cuối cùng một người nhập định được đến Tứ thiền lại chứng thêm Tam minh thì bằng Tứ thánh quả.

    Tứ thiền + Tam minh = Tứ quả A la hán

    Còn những giai đoạn trước đó ta không tìm thấy một mối liên hệ rõ ràng.

    Xem thêm: Thiền bệnh – Tác hại của ngồi thiền không đúng cách

    1. Sơ quả Tu đà hoàn

    tu-thanh-qua (3)
    Sơ quả Tu đà hoàn

    Sơ quả Tu đà hoàn (Sotàpatti) là thánh vị đầu tiên, sau khi người đệ tử Phật phá được ba kiết sử, gồm: Thân kiến, Giới cấm thủNghi.

    Thân kiến nghĩa là ích kỷ, vị kỷ. Người chưa chứng được Sơ quả thì hay bị tâm vị kỷ chi phối để chỉ biết nghĩ lợi phần mình. Người chứng được Sơ quả thì tâm vị kỷ biến mất, thay vào đó là đời sống vị tha tràn đầy. 

    Tâm vị tha này chưa phải là tâm Vô ngã như Alahán mặc dù rất biết hy sinh. Nhưng thật ra phải rèn luyện đạo đức để có tâm vị tha thì người này mới có thể chứng Sơ quả được. 

    Tâm tìm được sự vắng lặng, hưởng được niềm an vui của thiền định cũng giúp hành giả nhẹ đi tâm vị kỷ.

    Giới cấm thủ nghĩa là tâm cố chấp. Người phá được kiết sử này thì không cố chấp vào hình thức, vào những lề thói bất hợp lý, vào những quy luật sai lầm, vào những phương pháp hạn chế, hay những dư luận bên ngoài. 

    Họ chỉ làm gì đúng với Đạo lý, đúng với mục tiêu giác ngộ và Đạo đức. Tâm an ổn trong thiền định cũng giúp phá được kiết sử này.

    Nghi nghĩa là chưa xác quyết được lý tưởng giác ngộ, chưa xác quyết được lòng tôn kính Phật, chưa tin chắc mình đã tìm được hướng đi đúng. 

    Người chứng được Sơ quả thì ngược lại, đã xác quyết được hướng đi, lý tưởng và lòng tôn kính Phật tuyệt đối. Phải có kết quả an ổn trong thiền định, người ta mới có những tính chất tích cực như vậy. 

    Do đó, những vị chứng Sơ quả bắt buộc cũng phải là những người có được kết quả nào đó trong thiền định. Có thể vị đó đã chứng được Chánh niệm tỉnh giác, hoặc đã chứng được Sơ thiền, nhưng không nhất thiết.

    Một vị chứng Sơ quả thì có thể có trình độ thiền định của Chánh niệm, hoặc Sơ thiền, thậm chí Nhị thiền. Nhưng ngược lại, một vị chứng thiền định như thế thì chưa chắc chứng được quả thánh nào. 

    Đó là lý do tại sao các hành giả ngoại đạo có thể chứng thiền định nhưng không thể chứng thánh quả là vậy. Thánh quả khác với thiền định ở chỗ đòi hỏi trí tuệ, đạo đức, quan điểm.

    Thiền định chỉ cần tâm vắng lặng là đủ, mặc dù ta biết rằng muốn tâm đi vào vắng lặng lại phải có Công đức, Đạo đức và Khí công.

    Hầu hết những vị chứng thánh quả đều có nguyên nhân từ kiếp xa xưa đã từng hết lòng tôn kính một vị thánh giác ngộ nào đó. Điều này giống như Thánh nối tiếp Thánh thành một dòng bất tận. 

    tu-thanh-qua (2)
    Tôn kính các vị thánh là nhân để nhập vào dòng thánh

    Còn việc thành tựu thiền định thì chỉ đòi hỏi công đức đem được nhiều niềm an vui cho con người.

    Tuy nhiên, hầu hết ai đạt được điều này thì cũng đạt được điều kia, cũng đều đã có lòng tôn kính Phật, đã từng đem an vui cho con người, đã từng rèn luyện chính mình trong những tiêu chuẩn đạo đức khắt khe.

    Điều khác nhau giữa Thánh quả và bốn mức thiền nữa là sự hứa hẹn ở vị lai (tương lai). Đối với các mức thiền, Phật chỉ diễn tả và ca ngợi trạng thái tâm thức. Còn đối với Thánh quả, Phật hứa hẹn sự giải thoát hoàn toàn ở vị lai theo từng quả vị khác nhau. 

    Ở Sơ quả Tu đà hoàn, Phật ấn chứng rằng vị này chắc chắn sẽ giải thoát nhưng không đưa ra thời gian cụ thể. 

    Riêng tài liệu của Phật giáo Bắc tông thì cho rằng vị chứng Sơ quả sẽ còn bảy lần tái sinh vào cõi người rồi sẽ chứng Alahán. Đây là điểm khác nhau giữa hai hệ thống Phật giáo. 

    2. Nhị quả Tư đà hàm

    Nhị quả Tư đà hàm (Sakadàgàmì: nghĩa là một lần đến) hiện hữu nơi người đã phá xong ba kiết sử trên và tiếp tục làm mỏng nhạt thamsân.

    tu-thanh-qua (4)
    Nhị quả Tư đà hàm

    Người chứng Nhị quả chưa phải là người đã phá trừ hết hai kiết sử Tham và Sân, chỉ là bớt đi tham và sân.

    Tham và Sân ở đây là những gốc tâm thức rất sâu chứ không phải những cái tham sân thường mà ta vẫn thấy. 

    Vì vậy, Nhị quả chưa cần diệt hết Tham Sân, nhưng làm mỏng nhạt Tham Sân đã đủ để ta không bao giờ nhìn thấy vị ấy khởi tham và sân nữa. Còn Tham Sân vi tế thì phải đợi đến Tam quả mới diệt sạch.

    Ta sẽ nhớ rằng sau khi chứng được Chánh niệm tỉnh giác, hành giả sẽ tiếp tục phá trừ được Năm Triền cái, trong đó có hai triền cái là Tham và Sân. 

    Cái khác nhau giữa Triền cái Tham Sân và Kiết sử Tham Sân là:

    – Triền cái có nghĩa là buộc che

    – Kiết sử có nghĩa là cộtsai khiến

    Hai nghĩa nghe na ná nhau, và từ xưa Phật cũng không đưa ra sự phân biệt rạch ròi. Ta chỉ thấy trong Năm Triền cái phải được phá để vào Sơ thiền thì có Triền cái Nghi trùng với Kiết sử Nghi được phá ở Sơ quả, có Triền cái Tham Sân trùng với Kiết sử Tham Sân được phá ở Nhị quả. 

    Vì cả Năm Triền cái được phá ở trước Sơ thiền đều không có Thân kiến và Giới cấm thủ nên ta không dám kết luận phá được Năm triền cái là chứng các thánh quả tương đương với Sơ quả và Nhị quả hay Tam quả. 

    Nhưng ta phải công nhận rằng người phá được Năm Triền cái là đã có những tính chất cao quý của Thánh rồi. Ta có thể tạm cho rằng Triền cái có nghĩa cạn hơn Kiết sử, và tiếp tục suy luận rằng nơi Nhị quả làm mỏng nhạt kiết sử Tham Sân, nơi Tam quả diệt sạch kiết sử Tham Sân có nghĩa hoàn toàn hơn là phá được Triền cái Tham Sân.

    Giữa một thế gian đầy tham lam thù hận, người hết sạch tham sân quả thật là ánh sáng. Ta cũng hiểu rằng để cho cõi lòng không còn tham sân thì tâm vị ấy cũng phải cực kỳ yên tĩnh.

    tu-thanh-qua (1)
    Tâm tĩnh lặng (ảnh minh họa)

    Phật cũng ấn chứng cho người chứng được Nhị quả Tư đà hàm sẽ chỉ còn một lần tái sinh lại cõi đời này và sau đó sẽ chứng Alahán.

    Xem thêm: 05 Chướng ngại của Thiền trong đạo Phật

    3. Tam quả A na hàm

    Tam quả A na hàm (anàgàmì: có nghĩa là không đến nữa) xuất hiện nơi vị đã tiếp tục diệt sạch hai kiết sử Tham và Sân.

    tu-thanh-qua (5)
    Tam quả A na hàm

    Nhân duyên làm chúng ta cứ bị liên lụy với cõi đời này chính là do tham lam, tham dục, hận thù, ganh ghét. Hết hai kiết sử Tham và Sân rồi thì nhân duyên với thế gian này cũng hết. 

    Do vậy, một vị chứng Anahàm thì không còn bị tái sinh về cõi này nữa, sẽ hóa sinh giữa cõi trời Sắc cứu kính, sau một thời gian không nhất định, sẽ chứng Niết bàn tại đấy.

    Chúng ta không cần lạm bàn về những tính chất siêu việt của một vị Anahàm, chỉ đối chiếu với bốn mức thiền để hiểu ra sự giống và khác mà thôi. 

    Chúng ta cũng không nghe nói là phải chứng được mức thiền nào thì cũng tức là chứng Anahàm, chỉ theo lời Phật dạy để biết rằng ai có thể diệt trừ năm kiết sử từ Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi, Tham Sân thì đạt được đệ Tam thánh quả.

    Đó là năm điều bất thiện, phi đạo đức giam chúng sinh làm một kẻ phàm phu tầm thường. Ai thoát ra khỏi năm điều phi đạo đức đó thì trở thành bậc thánh không bao giờ trở lại làm người tầm thường nữa. 

    Nhưng vẫn còn năm điều bất thiện vi tế hơn sẽ tiếp tục giam giữ bậc thánh Anahàm lại khiến cho vị này không đạt đến sự giải thoát giác ngộ tuyệt đối, đó là:

    – Sắc ái: Là tâm yêu thích cảnh giới cõi trời, nhất là cõi trời cao siêu như Sắc cứu kính.

    – Vô sắc ái: Là tâm ưa thích nơi cõi giới Vô sắc, đó cũng được xem là cõi trời nhưng chỉ còn có tâm vắng lặng rất sâu mà không còn có hình thể nữa. 

    Hai cõi giới trên rất là cao cả vi diệu, an lạc, mà ai cũng tưởng lầm là chỗ an trú tuyệt đối cuối cùng nên chấp giữ. Chỉ có Phật mới biết những cõi giới đó vẫn còn hữu hạn.

    – Phóng dật: Vì cảnh giới chứng ngộ của Anahàm rất cao siêu, nên chính các vị đó cũng âm thầm tự mãn. Tâm tự mãn này cực kỳ vi tế mà chính vị đó không hay biết nếu không được Phật cảnh báo. 

    Vì tự mãn nên vị Anahàm tuy ở trong định mà vẫn còn chút tâm an trú, tâm chấp giữ, tâm thụ hưởng. Vì những điều này mà Phật chê Anahàm còn phóng dật.

    – Mạn: Là còn chút tâm thấy mình vượt hơn chúng sinh. Một vị Alahán hoàn toàn giải thoát thì thấy mình với chúng sinh là một; còn một vị Anahàm dù rất tự tại vẫn còn một chút cực kỳ vi tế thấy mình hơn chúng sinh.

    Vì lỗi này mà Phật bảo Anahàm vẫn còn kiêu mạn. Quả thật, không có Phật soi đường dẫn lối thì không ai có thể biết nổi những lỗi quá vi tế này.

    – Vô minh: Vô minh là gì thì chỉ có Alahán với Phật mới biết, chúng ta không bao giờ cảm nhận nổi. Chúng ta chỉ tạm hiểu rằng vì vô minh nên chúng ta chấp ngã và không chứng ngộ Niết bàn. 

    Thật ra ngay cả chấp ngã là gì cũng không ai biết. Một vị có thể nhập định vài ba ngày, tâm rỗng như hư không cũng chưa thấy được bản ngã là gì. 

    Bản ngã sâu kín như thế, bí mật như thế nên khó ai thoát ra được. Có khi người ta đã duy trì bản ngã bằng các giáo lý nghe cao siêu chất ngất, người ta đã tôn vinh tâm mình, đề cao tánh mình, không biết rằng họ đã đầu hàng bản ngã.

    Xem thêm: Ý nghĩa của “Hơi Thở” trong Thiền Đạo Phật

    4.Tứ quả A la hán

    Alahán (Arahanta) là quả thánh cao siêu cuối cùng, thật sự giải thoát, giác ngộ viên mãn. Vị alahán đầy đủ thần thông tự tại phi thường, không còn bị cuốn vào luân hồi sinh tử nữa, trừ trường hợp thị hiện vì đại nguyện. 

    tu-thanh-qua (6)
    Tứ quả A la hán

    Sự vĩ đại của một bậc Alahán thì không một ngôn từ nào có thể diễn tả được. Mỗi người chỉ tùy theo nhân duyên và trí tuệ của riêng mình để hiểu một phần nho nhỏ nào đó mà thôi.

    Khi bản ngã không còn, vị Alahán trở thành toàn thể vũ trụ nên hiểu biết tất cả mọi điều trong vũ trụ; khi bản ngã chấm dứt, vị Alahán trở thành toàn thể chúng sinh nên yêu thương tất cả chúng sinh. 

    Khi bản ngã đã hết, vị Alahán không còn bị ràng buộc bởi sức mạnh nào đối với luân hồi sinh tử nên hoàn toàn giải thoát.

    Sau khi phá luôn năm kiết sử cuối cùng, một vị Anahàm sẽ chứng Alahán, nghĩa là đạo đức đã trở thành tuyệt đối hoàn hảo. 

    Không một thần thánh thiên tử nào có thể tìm thấy lỗi lầm của một vĩ Alahán nữa. Nơi đây, đương nhiên một vị Alahán cũng đã thành tựu xong bốn mức thiền. Tứ thiền và Tứ thánh quả đều hiện diện đầy đủ nơi vị Alahán như thế.

    Xem thêm: Điều Thân – Cách ngồi Thiền căn bản, đúng phương pháp

    Lời kết

    Như vậy, Tứ thánh quả trong đạo Phật là bốn quả vị rất vĩ đại, chứng được một quả vị nào trong Bốn thánh quả này thì con đường giải thoát là hoàn toàn chắc chắn, không bị thoái chuyển về sau.

    Bốn mức thiền tuy cũng vĩ đại không kém, nhưng vẫn có thể bị thoái đọa về sau nếu bị lạc vào tà kiến làm hao tổn công đức tu hành.

    Để hiểu và phân biệt  rõ ràng hơn về Tứ thiền và Tứ thánh quả. Mời quý vị đạo hữu Phật tử lắng nghe bài giảng của Hòa Thượng Giảng sư Thích Chân Quang (Trụ trì chùa Phật Quang) qua video dưới đây:

    Bài tập: Phân biệt sự khác nhau giữa Tứ thiền và Tứ thánh quả.

    Bạn có thể trả lời ở phần bình luận phía dưới để mọi người cùng chia sẻ và góp ý giúp đỡ nhau tu tập tiến bộ hơn.

    Thiền học 17: Đốn ngộ là gì? Hiện tượng đốn ngộ trong Thiền

    4.9/5
    4.7/5

    13 bình luận

    1. Nam Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Con cảm ơn thầy ạ thầy Thích Chân Quang bao nhiêu công đức đã đi các chùa giảng pháp cho các phật tử nghe ạ. Cảm ơn admin đã chia sẻ bài viết. A Di Đà Phật.

    Trả lời

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *