Tứ Thiền là bốn mức nhập định từ cạn đến sâu do Phật phân định một cách chuẩn mực. Chính Phật cũng đi qua bốn mức nhập định này để chứng đạo. 

Trong suốt cuộc đời hoằng hóa, Phật cũng lặp đi lặp lại về tiêu chuẩn bốn mức thiền để nhắc nhở đệ tử. Rồi trong giây phút cuối cùng tại khu rừng Sala ở Câu thi na (Kusinara), Phật cũng nhập xuất tự tại bốn mức thiền trước khi nhập Niết bàn hoàn toàn. 

♦ Thiền học 14: Thiền bệnh – Tác hại của ngồi thiền không đúng cách

tu-thien (4)
Phật nhập niết bàn trong rừng Sala (ở Kusinara, Ấn Độ)

Đó là tinh túy của Phật Pháp được Phật gửi gắm qua hành động nhập xuất thiền mà không nói bằng lời nữa. Các đệ tử của Phật làm gì thì làm, phải tu tập để thành tựu khả năng nhập xuất tự tại bốn mức thiền như thế.

GIÁO TRÌNH THIỀN HỌC

Hướng dẫn Thiền định (căn bản) dành cho người mới


Xem ngay!

Nội dung chính
  • Tứ Thiền là gì?
  • 1. Sơ thiền
  • 2. Nhị thiền
  • 3. Tam thiền
  • 4. Tứ thiền
  • Năm mức định
  • Lời kết
  • Tứ Thiền là gì?

    Tứ thiền nghĩa là bốn mức độ nhập định được chia ra Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiềnTứ thiền

    Bốn mức thiền này đều có nhập và xuất, nghĩa là khi muốn an trú mức thiền nào, ta phải có thời gian dụng công, chứ không phải đó là những trạng thái thường xuyên. Rồi khi muốn trở lại trạng thái như cũ, ta cũng phải mất công thoát ra chứ không phải tức thì được.

    Bình thường khi không nhập thiền, một thiền giả an trú trong nội tâm tỉnh giác vắng lặng, nhưng không phải là bốn mức thiền này. Bốn mức thiền này chỉ được thực hiện trong tư thế bất động mà thôi. 

    Tuy nhiên, cũng có khi một thiền giả vừa đi vừa nhập thiền rất sâu. Lúc đó, vị đó được xem là khởi thần thông, vì thần thông có nghĩa là vừa vào định vừa hành động.

    Chúng ta cần hiểu qua tính chất của Tứ thiền trước khi so sánh với Tứ thánh quả. Những điều được trình bày ở đây là dựa vào bài kinh Sa Môn Quả trong Trường bộ kinh.

    1. Sơ thiền

    Sơ Thiền là mức nhập định đầu tiên, nhưng phải là đã chứng được Chánh niệm tỉnh giác và phá trừ xong Năm triền cái. Hành giả như lọt vào một trạng thái thanh tịnh hơn, và tự động, chứ không còn phải gắng sức giữ gìn như trước kia nữa. 

    tu-thien (3)
    Sơ thiền (ảnh minh họa)

    Khi chứng được Chánh niệm, hành giả thấy tâm mình cũng đã là thanh tịnh rồi, nhưng còn phải khéo léo giữ gìn nhẹ nhẹ. Nhưng từ Sơ thiển trở đi, hành giả không còn phải giữ gìn nữa mà tâm tự động an trú trong định.

    Hành giả thấy thân của mình chuyển từ trạng thái cứng ngắt – như khúc gỗ (lúc phá xong triền cái Trạo cử) sang trạng thái mềm lỏng như một khối nước nhớt nhớt giống như xà bông.

    Tâm hành giả dĩ nhiên là vắng lặng, nhưng thật ra vẫn còn những ý niệm về công phu của mình, về thành tựu của mình. Những ý niệm này rất thầm lặng nên hầu như hành giả không biết là mình đang còn ý niệm, cứ tưởng rằng mình đã hoàn toàn thanh tịnh. 

    Phật diễn tả đó là trạng thái “ly dục sinh hỷ, còn tầm còn tứ”, và toàn thân như một khối nước pha với thứ bột tắm (giống như nước xà bông bây giờ).

    Trong Sơ thiền, hành giả lìa bỏ được các ham muốn thế gian vì niềm an vui của nội tâm vừa đầy đủ, vừa thanh khiết. Toàn thân hành giả luôn ở trong trạng thái vui sướng nhè nhẹ và tràn đầy. 

    Đây đúng là phước cõi trời. Cái ý niệm thầm kín về công phu và sự thành tựu của mình tạo nên một loại kiến giải Phật Pháp và tâm tự hào bí mật. 

    Hành giả sẽ dễ dàng hỏi đáp các thiền ngữ bí ẩn, hay say sưa thuyết pháp nếu có cơ hội. Vì vậy, tuy Sơ thiền rất là vĩ đại nhưng cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ đối với đạo đức.

    Xem thêm: Thiền định là gì? Định nghĩa về Thiền cho người học Phật

    2. Nhị Thiền

    Nhị thiền là kết quả tiếp theo nếu hành giả đủ công đức. Hành giả sẽ thấy toàn thân mình giống như nước trong mát tuôn trào bất tận, mà Phật diễn tả như hồ nước được suối phun và mưa tuôn mãi mà không bao giờ lọt nước ra khỏi hồ.

    tu-thien (5)
    Nhị thiền (ảnh minh họa)

    Dĩ nhiên nước thì mềm hơn, lỏng hơn nước sệt sệt của xà bông. Từ toàn thân cứng của Chánh niệm, tiến lên Sơ thiền thì thân mềm ra thành nước xà bông sệt sệt, tới Nhị thiền thì thân đã mềm hoàn toàn như nước nguyên chất, và lại còn thêm cảm giác tuôn tràn mãi, tuôn tràn mãi.

    Niềm vui của Nhị thiền thì đằm thắm hơn Sơ thiền vì bớt đi cái tự hào và ý niệm. Phật gọi

    Nhị thiền là “định sinh hỷ lạc”, nghĩa là niềm vui của Nhị thiền thật sự do tâm hoàn toàn an ổn trong định mà có. 

    Lúc này những ý niệm thầm kín cũng biến mất, nên trong đời sống hành giả không còn ham thích trình bày phô trương, và rất hiền lành. Phật gọi là hết tầm hết tứ.

    Lúc này hành giả thành tựu trí tuệ rất sắc bén nhanh nhạy, kiến giải Phật Pháp là bất tận vô ngại, việc gì nhìn thoáng qua là biết rõ, ngồi thiền rất lâu, thường biết trước giờ chết.

    Nếu đừng bị tà kiến xâm nhập thì đường giải thoát của người đạt Nhị thiền là chắc chắn. Nếu bị tà kiến, lầm cho mình là viên mãn, tưởng rằng mình đã kiến tánh thành Phật, thì hành giả hưởng hết phước kiếp này, qua kiếp sau sẽ bị thoái đọa, lui sụt xuống mức độ thấp hơn nhiều.

    3. Tam thiền

    Tam thiền được Phật diễn tả toàn thân như một bông hoa sen đang vươn lên từ trong nước, được nước bao phủ, với nội tâm là xả niệm lạc trú, niềm an lạc là vi diệu vô tận.

    tu-thien (1a)
    Tam thiền (ảnh minh họa)

    Niềm vui của Tam thiền rất đằm thắm nhỏ nhiệm và đầy khắp, giống như bông hoa sen ngập trong nước, tẩm ướt, tràn ngập, nhưng không thấm nước, cũng vậy, niềm vui của tam thiền rất tự tại bình an và vượt khỏi cơ thể, giống như cả không gian đều cùng an vui vậy. 

    Thân của hành giả lúc này giống như một khối không khí hân hoan an lạc. Ý nghĩa của từ xả niệm là hành giả đã vượt khỏi Tưởng ấm vào được Hành ấm, kiểm soát được Hành ấm. 

    Xem thêm: Ngũ uẩn là gì? Cơ chế Tâm lý của Thiền

    Hành ấm là phần tâm Vô thức bí mật của mỗi người mà chính ta không thấy được. Rất nhiều sự sáng tạo, suy luận, truy tìm, tính toán… đều là của Hành ẩm. 

    Tưởng ẩm chỉ là bày hiện ra một phần rất nhỏ. Tốc độ của Hành ấm là cực nhanh. Kiểm soát được Hành ấm có nghĩa là tâm hồn đã thật sự ổn định. 

    Những bản năng sinh tồn, bản năng hưởng thụ.. đều bị kiềm chế. Lúc này, khi ngồi thiền nhập định, hành gia không còn nghe thấy mọi cảnh vật tiếng động bên ngoài, hoàn toàn an trú vững chắc trong thế giới nội tâm sáng suốt vi diệu thanh tịnh của mình.

    Hành giả đã có được thần thông khá nhiều, có thể biết được nhiều chuyện, có thể làm được nhiều chuyện phi thường. 

    Hành giả cũng có thể làm chủ sống chết, muốn chết lúc nào cũng được. Tuy nhiên theo đường lối của Phật dạy, nếu sử dụng thần thông lúc này, hành giả sẽ bị đứng lại, khó tiến đến giải thoát hoàn toàn. 

    Đến mức độ này, thật sự vị ấy đã là một vị thánh phi thường giữa trần gian. Điều trở ngại vẫn là tà kiến. Nếu bị tả kiến để cho mình là Phật, tương đương với Phật thì vị ấy sẽ bị thoái đọa ở một kiếp khác vài nghìn năm sau.

    Xem thêm: Bát chánh đạo là gì? Ý nghĩa của Thiền trong Bát chánh đạo

    4. Tứ thiền

    Tứ thiền là mức thiền cuối cùng để chứng ngộ. Phật diễn tả đó là trạng thái xả niệm thanh tịnh, không lạc không khổ.

    tu-thien (2)
    Tứ thiền (ảnh minh họa)

    Từ “xả niệm” ở đây khác với xả niệm của Tam thiền. Xả niệm của Tam thiền có nghĩa là vượt ra khỏi Ý thức để nhập được vào Vô thức. Còn Xả niệm của Tứ thiền có nghĩa là vượt khỏi tâm thức hoàn toàn, kể cả Vô thức và Ý thức.

    Vì bản ngã được chứa đựng trong Tâm thức, nên một khi không còn tâm thức, thì Bản ngã cũng chấm dứt – “The Ego exists in mind, so once mind comes to end, Ego disappears, too”. 

    Phật diễn tả Tứ thiền giống như một người ngồi với tấm vải trắng trùm hết toàn thân. 

    Cũng vậy, toàn thân không còn là cứng như khúc gỗ của Chánh niệm, không còn mềm sệt sệt như nước xã bông của Sơ thiền, không còn lỏng hoàn toàn như nước tinh khiết của nhị thiền, không còn nhu nhuyễn như cả bầu không khí của Tam thiền, mà đã trở thành một khối ánh sáng thuần tịnh. 

    Toàn thân là sáng suốt, toàn thân là trí tuệ. Tuy nhiên ta đừng lầm, thân trở thành một khối ánh sáng thuần tịnh, khác với người mới vào thiền toàn thân phát hào quang mà người ngoài nhìn thấy được. Toàn thân khối ánh sáng của Tứ thiền thì chỉ có hành giả mới cảm nhận và thấy được.

    Khi đến giai đoạn này, tự nhiên hành giả bị bắt buộc phải trải qua kinh nghiệm Tam minh. 

    Đầu tiên là nhớ lại vô lượng kiếp quá khứ của mình với từng chi tiết nhỏ để thành tựu Túc mạng minh

    Kế đến là thấy sự lưu chuyển sinh tử của vô số chúng sinh ở các cõi theo nghiệp duyên thiện ác để thành tựu Thiên nhãn minh

    Cuối cùng là thấy rõ bản chất đau khổ của luận hồi sinh tử, nguyên nhân của đau khổ, bản chất của Niết bàn, và con đường đưa đến Niết bàn để thành tựu Lậu tận minh.

    Sau khi thành tựu Tam minh, vị này đã hoàn toàn là một vị thánh Alahán siêu việt giải thoát. 

    Như vậy đi bằng con đường Tứ thiền, hành giả vẫn đến được quả thánh thứ tư là Alahán.

    Xem thêm: 05 Chướng ngại của Thiền trong đạo Phật

    Năm mức định

    Ngoài bốn tầng  thiền định, ta còn nghe Phật nói về năm mức Định. Nhiều người hiểu lầm rằng năm mức định cao hơn Tứ thiền. 

    tu-thien (2a)
    Năm mức định (ảnh minh họa)

    Thật ra năm mức định tương đương với bốn mức thiền, khác nhau về cách hướng tâm mà thôi. Để thành tựu tính chất của Thiền, hành giả phải dùng tâm bám sát vào thân, theo dõi thân.

    Xem thêm: Điều Thân – Cách ngồi Thiền căn bản, đúng phương pháp

    Kết quả đạt được trong Thiền cũng liên quan đến các trạng thái của thân như cứng ngắt, mềm mại, như không khí, hay như ánh sáng.

    Còn để thành tựu những tính chất của Định, hành giả phải buông tâm không trú vào đâu cả, và như thế, tâm dễ mở rộng thênh thang. Tu theo Thiền dễ nhiếp tâm hơn tu theo Định. 

    1. Không vô biên xứ định là tương đương với Sơ thiền, hành giả thấy tâm như là hư không trống rỗng thênh thang.

    2. Thức vô biên xứ định là tương đương với Nhị thiền, hành giả thấy trong cái thênh thang trống rỗng đó đều là cái biết. Cả cây đá cũng có cái biết.

    3. Vô sở hữu xứ định là tương đương với phần đầu của Tam thiền, hành giả thấy cả đất trời vũ trụ này không có gì hiện hữu cả. Giống như câu nói “không một vật” mà các thiền sư hay dùng.

    4. Phi tưởng phi phi tưởng định là tương đương với phần sau của Tam thiền. Tâm của hành giả như là có vì còn biết, nhưng cũng như là không vì quá thanh tịnh. Lúc này biết mà dường như không biết. 

    5. Diệt tận định hay Diệt thọ tưởng định là tương đương với Tứ thiền. Một vị thánh nhập vào định này tức là đang an trú vào cảnh giới của Niết bàn dù chưa bỏ thân. Đây cũng là bản thể của vũ trụ pháp giới. Chỉ ai chứng Alahán mới nhập được định này.

    Tham gia nhóm giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm về Thiền định và Phật học.


    Thiền Định & Phật Học (Zalo)

    Lời kết

    Như vậy, tứ thiền là 4 mức thiền hay 4 tầng thiền từ cạn đến sâu mà Phật phân định một cách có chuẩn mực. Kết quả đạt được của bốn mức Thiền này liên quan chặt chẽ đến các trạng thái của thân như cứng ngắt, sền sệt như nước xà bông, như nước tinh khiết, như không khí, hay như ánh sáng.

    Ngoài bốn mức thiền ta còn có năm mức định (tương đương), gồm: Không vô biên xứ định, Thức vô biên xứ định, Vô sở hữu xứ định, Phi tưởng phi phi tưởng định, Diệt tận định (hay Diệt thọ tưởng định). 

    Kết quả đạt được của năm mức định này liên quan chặt chẽ đến các trạng thái của tâm như: hư không trống rỗng, hư không trống rỗng đều là cái biết, đất trời vũ trụ không còn hiện hữu, như có như không, niết bàn.

    Để hiểu rõ hơn về Tứ thiền và năm mức định. Mời quý vị đạo hữu hãy lắng nghe bài giảng của Hòa Thượng Giảng sư Thích Chân Quang (Trụ trì chùa Phật Quang) qua video dưới đây:

    (Bấm ▶️ để xem)

    Bài tập: Nêu các trạng thái thay đổi của thân trong 4 mức Thiền.

    Bạn có thể trả lời ở phần bình luận phía dưới để mọi người cùng chia sẻ và góp ý giúp đỡ nhau tu tập tiến bộ hơn.

    Thiền học 16: Bí mật của Tứ thánh quả trong Thiền Đạo Phật

    4.9/5
    4.7/5

    12 bình luận

    1. Tứ thiền thật vĩ đại, nếu không hiểu cặn kẽ rất dễ lạc vào tà kiến và đi sai đường, cảm ơn admin đã chia sẻ rất hay ạ.

    2. Bài chia sẻ của bạn rất giá trị với một người mới tìm hiểu về Thiền như tôi, không biết website mình có group nào để mọi người giao lưu chia sẻ không ạ?

    Trả lời

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *