♦ Bài viết trước: Khổ đế là gì? 08 cái khổ “thâm căn cố đế” của đời người

Trong Khổ đế, chúng ta thấy rõ 08 nỗi thống khổ nơi con người. Trước những khổ đau ấy, không ai là không cảm thấy ghê sợ, nhàm chán cho cuộc sống nơi trần gian này. 

Thấy được những nỗi đau khổ này, nhiều câu hỏi sẽ liền nảy ra trong suy nghĩ của chúng ta: “Vì đâu sinh ra những nỗi khổ ấy?” và làm sao để đoạn trừ những đau khổ này?

Thì hôm nay, PhatTuTaiGia.com sẽ cùng bạn tìm hiểu về Tập đế và trả lời câu hỏi: “Tại sao con người đau khổ?”.

Giáo Trình Thiền Học

Hướng dẫn Thiền định (căn bản) dành cho người mới


Xem ngay!

Nội dung chính
  • Tập đế là gì?
  • 10 nguyên nhân dẫn đến đau khổ của con người
  • Lời kết
  • Tập đế là gì?

    Dịch theo ngữ nghĩa thì:

    – “Tập” có nghĩa là những thói quen, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên mà đưa con người đến với đau khổ. Hay hiểu đơn giản “Tập” là nguyên nhân của đau khổ. 

    – “Ðế” là chân lý, là sự thật vững chắc, đúng đắn hơn cả. 

    Tập đế” là chân lý về nguyên nhân của những nỗi khổ đã được cộng dồn, tích lũy từ nhiều đời, nhiều kiếp của mỗi chúng sinh. Ðó là sự thật về cội gốc của sinh tử, luân hồi, của bể khổ trần gian.

    10 nguyên nhân dẫn đến đau khổ của con người

    Dưới đây là 10 nguyên nhân dẫn đến đau khổ nơi con người mà Phật đã chỉ ra. Mười nguyên nhân này gồm:

    1. Tham: Nghĩa là tham lam. 

    Tham lam có nguồn gốc xuất phát từ sự ích kỷ nơi con người, mong muốn có được nhiều hơn, người có nhiều rồi thì muốn nhiều hơn nữa. Lòng tham là vô đáy.

    tap-de (3)
    Tham lam là nguyên nhân thứ nhất đưa đến đau khổ (ảnh minh họa)

    Tham lam có thể chia làm 2 loại:

    Tham đắm của cải, vật chất: Dễ thấy nhất là những người mê đắm tiền tài, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở… lòng tham này khiến con người bày mưu, tính kế để có được những của cải vật chất mình muốn, đôi khi phải hãm hại người khác để mà có được dẫn đến những xung đột, tranh đấu và oán hận lẫn nhau.

    – Tham lam ái dục: Là tham lam tình dục và sự yêu thương ích kỷ. Dễ thấy nhất ở những người thường xuyên ghen tuông, hay có những kẻ để thỏa mãn dục vọng của bản thân mà xâm hại đến người khác. Đây là sự tham lam mà khiến cả thế giới phải kinh tởm, ghê sợ và hậu quả để lại là những tổn thương, đau khổ không thể đo đếm được.

    Tóm lại, cũng vì tham mà nhân loại, chúng sinh chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ. Tham không chỉ hại cho mình và cho người trong hiện tại mà còn phải chịu những quả báo vô cùng đau khổ trong tương lai.

    2. Sân: Là nóng giận, tức giận. 

    Có câu “Lửa sân hận đốt cháy rừng công đức”. Thật vậy, trong lúc nóng giận dường như con người mất đi lý và hành động một cách vô thức theo bản năng. Điều này đã vô tình hoặc cố ý gây đau khổ cho những người khác, đôi khi dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.

    tap-de (4)
    Lửa sân hận phá tan rừng công đức (ảnh minh họa)

    Trong thế giới hiện đại ngày nay, con người cũng rất thường xuyên và dễ nổi nóng chỉ vì những lỗi nhỏ nơi người khác. Do đó mà không ít những bài báo có tiêu đề như: “Người đàn ông bị bạn đâm chết vì mời rượu không uống” hay “Giết chết bạn gái vì bị từ chối khi tỏ tình”… rất nhiều những câu chuyện tương tâm như vậy cũng là do tánh nóng giận mà ra.

    Do đó, nóng giận là nguyên nhân thứ hai dẫn đến đau khổ.

    3. Si: Là si mê, ngu si, mờ muội. 

    Si như là một tấm màn đen tối dày đặc trùm lên trí tuệ của ta, khiến ta không thể nhìn thấy được chân lý, sự thật, không thấy được sự tốt xấu, thiện ác, đúng sai trong đời. “Si mê” có nghĩa đối nghịch với “Sáng suốt

    Do đó, ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, làm hại mình, hại người mà không hề hay. 

    tap-de (4)
    Si giống như những mây đen ngăn cản ta thấy ánh sáng trí tuệ (ảnh minh họa)

    Vì si mà khiến lòng tham trở nên không đáy, bởi vì nếu là người sáng suốt thì sẽ thấy cái tai hại của tham và kìm hãm được một phần nào tánh tham. 

    Vì si mà lửa sân tự do bùng cháy, nếu là người sáng suốt biết cái tai hại của lửa sân thì không để cho nó hoành hành như thế. 

    Tổ sư đã dạy: “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì”. Nghĩa là không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình giác ngộ chậm. 

    Nói một cách dễ hiểu hơn: Không sợ tham và sân, mà chỉ sợ si mê. Thật đúng như thế: Nếu tham, sân nổi lên, mà có trí sáng suốt ngăn chặn lại, thì tham, sân không làm gì được. 

    Nói một cách rốt ráo hơn, nếu đã có trí huệ sáng suốt thì tham, sân không thể tồn tại được, như khi đã có ánh sáng mặt trời lên, thì bóng tối tất nhiên phải tự tan biến. 

    Ba tánh tham, sân, si này, Phật gọi là ba món độc, vì ba độc này mà chúng sinh phải chịu nhiều kiếp sinh tử luân hồi, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

    4. Mạn: Có nghĩa là kiêu căng, ngạo mạn; tự cao; tự nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; tự cho mình là quan trọng mà khinh rẻ mọi người; ỷ mình có tiền bạc, tài trí hay quyền thế mà dương dương tự đắc, khinh rẻ người già, hỗn láo với người đức hạnh, chà đạp người dưới, lấn lướt người trên.

    Vì lòng ngã mạn cho mình là hơn hết, nên chẳng chịu học hỏi thêm, không nghe lời nói phải. Do đó mà làm nhiều điều lầm lỗi, sai quấy khiến phước đức tổn giảm, tội lỗi chất chồng, phải chịu sinh tử luân hồi khôn cùng.

    tap-de (3)
    Kiêu mạn khiến ta tổn phước và nhanh chóng rơi vào đau khổ (ảnh minh họa)

    Mạn có 7 loại, gồm:

    Mạn: Hơn người ít, mà nghĩ mình hơn nhiều. 

    – Ngã mạn: Ỷ mình tài giỏi mà lấn lướt người khác. 

    Quá mạn: Mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng. 

    Mạn quá mạn: Người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người. 

    Tăng thượng mạn: Chưa chứng thánh quả mà cho rằng mình đã chứng. 

    Ty liệt mạn: Mình thua người nhiều mà nói rằng thua ít. 

    Tà mạn: Người tu về tà đạo, được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết được đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người.

    5. Nghi: Có nghĩa là nghi ngờ, không có lòng tin. 

    Người nghi ngờ không làm nên được việc gì hết. Ðối với người thân trong gia đình, họ không tin cậy giao phó công việc; đối với bạn bè, họ nghi ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với mình, họ cũng không tự tin nữa. 

    tap-de (2)
    Quá đa nghi, do dự thì không làm được việc gì (ảnh minh họa)

    Ðã không tự tin, họ còn gây hoang mang cho những người chung quanh, làm cho người thế gian ngã lòng, thối chí. 

    Ðối với đạo lý chân chánh, họ cũng không hăng hái tin theo. Những pháp tu giải thoát và các điều phước thiện, họ do dự không làm.

    Nghi có ba loại, gồm: 

    – Tự nghi: Nghĩa là nghi mình. Chẳng hạn như nghe chư Tăng bảo: “Tu hành sẽ được giải thoát”, nhưng lại tự nghi ngờ rằng: “Chẳng biết mình tu có được không?”. Vì tính do dự nghi ngờ ấy, nên họ không tu. 

    – Nghi pháp: Nghĩa là nghi phương pháp, giáo pháp mình đang tu. Chẳng hạn như nghe kinh Di Ðà nói: “Người chí tâm niệm Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày, được nhất tâm bất loạn, đến khi lâm chung sẽ được Phật Di Ðà tiếp dẫn sinh về nước Cực lạc”; nhưng họ lại nghi ngờ: “Phương pháp ấy không biết có kết quả đúng như vậy không?” Do sự nghi ngờ đó mà họ không tu. 

    – Nghi nhơn: Nghĩa là nghi người dạy mình. Như có người dạy rằng: “Làm lành sẽ được phước, làm ác sẽ bị tội”; nhưng họ lại nghi ngờ rằng: “Chẳng biết người này nói có thật không”. Do sự nghi ngờ ấy mà không làm. 

    Tóm lại, tánh nghi ngờ làm cản trở sự tiến triển của mình, ngăn ngại mọi công việc hữu ích và làm cho cuộc đời không vượt ra khỏi cảnh tối tăm khổ sở.

    6. Thân kiến: “Thân” ở đây là thân ngũ ấm, “kiến” là sự cố chấp, chấp chặt. Thân kiến nghĩa là chấp thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này làm ta. Hay hiểu đơn giản là sự ích kỷ, vị kỷ cho bản thân mình.

    Vì cái chấp sai lầm ấy, nên thấy có một cái Ta riêng biệt, chắc thật không biến đổi, thấy cái Ta ấy là riêng của ta, không dính dấp đến người khác, và là một thứ rất quý báu. 

    tap-de (2)
    Vì chấp thân mà đưa đến đau khổ (ảnh minh họa)

    Vì tưởng lầm như thế, nên kiếm món ngon, vật lạ cho ta ăn, may sắm quần áo tốt đẹp cho Ta mặc, lo xây dựng nhà cao, cửa lớn cho Ta ở, thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng để dành cho Ta dùng, kiếm công danh chức tước, địa vị cho Ta hãnh diện với mọi người. 

    Do sự quý chuộng phụng sự cho cái Ta ấy, mà tạo ra lắm điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái Ta khác, làm cho họ đau khổ vì Ta. Và thế giới trở thành một bãi chiến trường cũng vì cái Ta.

    7. Biên kiến: Từ “Biên” ta hiểu như là đường biên, ở lề, lệch hẳn về một bên, nghiêng về một phía; “kiến” ở đây cũng là sự cố chấp. Biên kiến có nghĩa là sự hiểu biết bị thiên lệch, có một thành kiến cực đoan. Biên kiến có hai lối chấp sai lầm lớn nhất là:

    – Thường kiến: Nghĩa là chấp rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn tồn tại mãi: người chết sẽ trở lại làm người, thú chết sẽ trở lại thú, thánh nhân chết trở lại làm thánh nhân. Do sự chấp ấy, họ cho rằng tu cũng vậy, không tu cũng vậy, nên không sợ tội ác, không thích làm thiện. Lối chấp này, đạo Phật gọi là “Thường kiến ngoại đạo“.

    – Ðoạn kiến: Nghĩa là chấp rằng chết rồi là mất hẳn. Ðối với hạng người chấp Ðoạn kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; tội cũng không mà phước cũng chẳng còn. Họ không tin nhân quả luân hồi, nên mặc tình làm các điều tội lỗi. Họ tự bảo: “Tu nhân tích đức già đời cũng chết; hung hăng, bạo ngược tắt thở cũng không còn”.

    Có người đối trước những cảnh buồn lòng, nghịch ý, những chuyện tình duyên trắc trở, tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả, nên họ đã không ngần ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông sâu để kết liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rỗi vẫn chưa hết! Lối chấp này, kinh Phật gọi là “Ðoạn kiến ngoại đạo“. 

    Tóm lại, Biên kiến khiến con người không biết tin nhân quả, tội phước, thuận duyên làm càn, không nghĩ đến phải chịu quả báo, khiến con người cuốn vào vòng luân hồi sinh tử không bao giờ dứt ra được.

    8. Kiến thủ: “Kiến” ở đây là sự hiểu biết, “thủ” là bảo thủ. Kiến thủ nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình.

    tap-de (1)
    Kiến thủ khiến ta có cái nhìn sai lệch với sự thật vốn có (ảnh minh họa)

    Kiến thủ có hai loại, gồm: 

    – Kiến thủ vì không ý thức được sai lầm của mình. Hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho là giỏi, ai nói cũng chẳng nghe.

    – Kiến thủ vì tự ái hay vì cứng đầu. Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là dở, nhưng vì tự ái, cứ bảo thủ cái sai cái dở của mình, không chịu thay đổi. 

    Như ông bà trước đã lỡ theo tà đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như thế mãi không chịu đổi. Họ cứ nói một cách liều lĩnh: “Xưa sao nay vậy”, hay “Xưa bày nay làm”. Hay như cha mẹ trước đã lỡ làm nghề tội lỗi, đến đời con cháu, vẫn cứ bảo thủ nghề ấy không chịu thay nghề khác.

    Nói rộng ra trong thế giới, có một số đông người, mặc dù thời thế đã cải đổi, tiến bộ mà họ cứ vẫn giữ lại những lề thói, cổ tục hủ bại mãi. Chẳng hạn như ở Việt Nam ta, đến bây giờ mà vẫn có những Phật tử, hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiến; khi đưa đám tang, gánh theo những con heo quay to tướng, đi biểu diễn qua các đường phố; mỗi khi tuần tự hay kỵ giỗ, thì đốt giấy tiền vàng bạc, áo quần kho phướng, mỗi năm phải hội họp để cúng tế tà thần, ác quỷ v.v… Chấp chặt những hủ tục như thế, đều thuộc về “Kiến thủ” cả. 

    9. Giới cấm thủ: Nghĩa là làm theo lời răn cấm của ngoại đạo tà giáo. Nhưng sự răn cấm này nhiều khi thật vô lý, mê muội, dã man, không làm sao đưa người ta đến sự giải thoát được, thế mà vẫn có nhiều người tin và làm theo. 

    Chẳng hạn như ở Ấn Độ, có phái ngoại đạo lấy đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm chỗ bẩn thỉu, leo lên cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, hay nhảy xuống sông trầm mình để được phước. 

    Có đạo, mỗi năm lại bắt tín đồ giết một người để tế thần, hay như đạo của anh chàng Vô Não, phải giết một trăm người lấy một trăm ngón tay xâu làm chuỗi hạt mới đắc đạo. 

    Những thứ cuồng tín như thế, không làm cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm đen tối, khổ đau thêm.

    10.Tà kiến: Nghĩa là chấp theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả. Nói một cách khác, Tà kiến nghĩa là mê tín dị đoan, như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v… 

    Tham gia nhóm giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm về Phật học và Thiền định

    (được thực hiện bởi phattutaigia.com)


    Thiền Đạo Phật (Zalo)

    Lời kết

    Trên đây là 10 nguyên nhân dẫn đến đau khổ mà Phật đã dạy trong Tập đế. Chỉ cần đoạn trừ được những nguyên nhân này thì sẽ không còn đau khổ. 

    Và khi hết đau khổ, con người sẽ bước sang một trạng thái an lạc tuyệt đối, một cảnh giới siêu phàm, chỉ tồn tại niềm hạnh phúc vô biên, vô tận mà Phật gọi là Niết Bàn. Vậy Niết Bàn là gì? Chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu về trạng thái này ở bài Diệt đế trong Tứ Thánh Đế tiếp theo nhé!

    Để hiểu sâu sắc hơn về Tập đế, mời quý vị đạo hữu lắng nghe bài giảng của TT.TS Thích Chân Quang (trụ trì chùa Phật Quang) qua video dưới đây:

    (Bấm ▶️ để xem)

    Bạn hãy để lại ý kiến của mình ở phần bình luận phía dưới để mọi người cùng chia sẻ và góp ý giúp đỡ nhau tu tập tiến bộ hơn.

    ♦ Bài viết tiếp: Diệt đế là gì? Chân lý về sự giải thoát, chấm dứt mọi đau khổ

    4.9/5
    4.7/5

    Một bình luận

    Trả lời

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *